Phong tục đón Tết đặc sắc của các vùng miền trên cả nước
PHONG TỤC ĐÓN TẾT ĐẶC SẮC CỦA CÁC VÙNG MIỀN TRÊN CẢ NƯỚC
Với vai trò là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa Việt Nam, Tết Nguyên Đán vẫn mang trọn những nét đẹp truyền thống dù trải qua biết bao năm tháng.
Đối với người dân đất Việt, Tết không chỉ là dịp để quây quần sum họp bên gia đình, mà còn là thời điểm để bảo tồn bản sắc dân tộc qua việc duy trì những phong tục cổ truyền. Tuỳ theo mỗi vùng miền, hoặc theo những quan niệm về tôn giáo của người Việt, các phong tục tập quán ở từng địa phương thường có chút khác biệt.
Hãy thử khám phá xem có những gì đặc sắc trong phong tục đón Tết ở các vùng miền khác nhau trên đất nước ta nhé!
Tết Yangpa của người Chơro
Người Chơ Ro sinh sống chủ yếu tại Ðồng Nai, Lâm Ðồng và Bà Rịa – Vũng Tàu, nhưng đông nhất là ở Đồng Nai. Hai tết lớn của đồng bào Chơ Ro là lễ cúng thần rừng và lễ cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon do mình làm… Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra khoản đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.
Tết Nhôlirbông của người Cơho
Người CơHo sinh sống chủ yếu ở Lâm Ðồng. Họ ăn tết sau tết Nguyên Ðán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông, tức tết mừng lúa về nhà. Tết này thường kéo dài cả tháng. Lễ cúng mừng lúa thường được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của già làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy máu gà bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui.
Lễ tết của người Chăm
Đồng bào Chăm hiện sinh sống chủ yếu ở Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Ở Đồng Nai cũng có một cộng đồng sinh sống tại Xuân Hưng, Xuân Lộc. Hai lễ tết lớn của người Chăm là Păng-Katê và Păng-Chabư. Păng-Katê cử hành vào 1-7 theo lịch Chăm (khoảng tháng 9 dương lịch) và Păng-Chabư cử hành vào ngày 16-9 theo lịch Chăm tức vào khoảng tháng 2, tháng 3 dương lịch.
Vào những ngày lễ, đồng bào chăm đổ về các nơi hành lễ chính như dền tháp Pônaga, tháp Pôrômê ở Ninh Thuận, tháp PôKlông Garai ở Phan Rang. Tết Păng-Katê là ngày tế lễ các vua Chăm thuở xa xưa có công dựng nước và hướng dẫn việc nông tang, thuộc về dòng họ người cha, tượng trưng cho khí dương, cho nên phải cử hành vào buổi mai. Còn Tết Păng Chabư là lễ cúng tế các nữ thần, các hoàng hậu, công chúa Chăm, thuộc dòng họ mẹ, tượng trưng cho khí âm nên được cử hành vào buổi chiều tối.
Người Chăm có 2 bộ phận chính theo 2 tôn giáo khác nhau là Bà la môn và bộ phận theo đạo Hồi. Những người theo đạo Bà la môn kiêng thịt bò. Những người theo đạo Hồi thì kiêng thịt heo. Ngày tết người theo đạo Hồi thường đến các giáo đường để nghe chức sắc đọc kinh Coran, cầu nguyện đấng Alah. Sau đó họ ra sông suối tắm để tẩy uế những cái xấu, cái xui của năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành. Người Chăm không có tục kiêng cữ.
Người Thái với tục gọi hồn ngày Tết
Thông thường ngày 25 tháng Chạp là phiên chợ cuối cùng, lớn nhất trong năm của người Thái. Sau vài ngày dọn dẹp nhà cửa, tối 29 người Thái bắt đầu gói bánh chưng. Ngoài bánh chưng như của người Kinh, người Thái còn có thêm một loại bánh chưng màu đen.
Để làm bánh chưng, họ đốt rơm, lấy tro giã lẫn gạo nếp rồi sàng sạch muội tro mà vẫn giữ được màu đen. Sau lễ cúng Giao thừa tối ngày 30, mọi người uống rượu suốt đêm và canh cho nhang khói trên bàn thờ tổ tiên cháy liên tục. Nhà nào có chiêng, cồng thì mang ra gõ tại nhà.
Một phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Thái là tục gọi hồn. Thường vào tối 29 hoặc 30, mỗi gia đình thịt hai con gà, một để cúng tổ tiên, một để gọi hồn cho mọi người trong nhà.
Đầu tiên, người cúng (thường là thầy cúng) lấy một cái áo của mỗi người trong gia đình, bó lại một đầu với nhau, vắt lên vai, tay cầm một cây củi đang cháy, mang ra đầu làng gọi hồn hai ba lần, sau đó về chân cầu thang lại gọi một lần nữa. Xong việc, thầy cúng đích thân buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên gia đình để trừ tà.
Tết cơm mới của người Êđê
Tết Cơm mới của người Rhadé hay Ê Đê ở Ðắk Lắk là vào khoảng tháng 10 dương lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia đình mang gùi đi tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín.
Tuỳ theo gia cảnh mà các gia đình giết trâu, bò, heo, gà nhiều hay ít. Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai choé rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái: “Lạy thần Mtâo Kia, thần H’Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Ðông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Alê Ngăn ở trên trời xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa”.
Tết Nguyên đán của người Mông và câu chúc “Nắng trời lên”
Tết của người Mông diễn ra vào cuối tháng 11 , đầu tháng 12 âm lịch. Đối với người Mông, năm mới không phải bắt đầu từ sau 12 giờ đêm giao thừa mà là từ khi gà cất tiếng gáy sáng đầu tiên. Ngày tết cũng là dịp lễ lớn nhất trong năm, khi mọi người ăn thịt gà và thịt lợn, tổ chức các lễ hội. Điểm thú vị là tết của người Mông cũng có nhiều điểm giống với người Kinh như kiêng quét nhà, cúng tổ tiên đêm giao thừa, kiêng các việc nặng, dọn nhà đón tết và mừng tuổi cho trẻ em.
Trong những ngày tết, nhiều hoạt động lễ hội được tổ chức với những trò chơi được diễn ra thường là ném pao, chơi cù, đua ngựa, múa khèn…
Khách đến thăm nhà người H’Mông vào ngày tết, chủ nhà sẽ chào “Nắng trời lên”, thay cho lời chúc sức khoẻ và mời khách uống rượu, hút thuốc. Ngoài ra, người Mông kiêng cữ đập tay vào ống điếu, chan canh trong ngày Tết. Tết của người H’Mông còn nổi tiếng với tiếng khèn vang khắp các sườn núi.
Ngoài ra, người Mông còn có tục vỗ mông vào ngày Tết. Tục lệ này là cách tỏ tình của thanh niên H’mông khi chàng trai để ý cô gái sẽ vỗ mông để thể hiện tình cảm và là cách để làm quen va bắt đầu câu chuyện. Ngoài ra, lễ hội Sải Sán hay Gầu Tào (hội cầu phúc) trong ngày Tết cũng là nơi tụ họp của người Mông trong ngày Tết để vui hội, chơi các trò chơi truyền thống như ném còong, múa khèn, múa ô, hát ống, hát giao duyên…
Tết của người Hrê
Tết của người Hrê ở Quảng Ngãi kéo dài suốt vài tháng liền. Mỗi gia đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà giàu có phải nấu từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ vài con trâu để đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi người đều tề tựu về nhà già làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau đó mới lần lượt đến các nhà khác.
Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Ðàn ông thì đeo ống chinh, còn đàn bà thì đeo ống bương lấy hai tay vỗ vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập bùng, bập bùng… Họ thích trò chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ dùng một đòn nhảy dài chừng hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai người ngồi đập thì hai người nhảy, thay đổi cho nhau.
Tết của người Dao với phong tục Tết nhảy
Người Dao cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân. Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là “Nhiang chằm Ðao” để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã…
Người Cao Lan dán giấy đỏ từ nhà tới chuồng gà
Cũng như người Kinh, người Cao Lan (một bộ phận của dân tộc Sán Chay) ăn Tết từ cuối tháng Chạp tới tháng Giêng. Một đặc điểm của người Cao Lan là họ cúng ở cả nhà riêng lẫn đình làng. Và tới giờ họ vẫn giữ nghi lễ lấy nước ở giếng đình làng để thờ cúng.
Trước Tết Nguyên đán khoảng 2 ngày, người Cao Lan sẽ mang giấy đỏ (tiếng Cao Lan là Chí dịt), để dán ở cửa ra vào, cổng nhà, bàn thờ tổ tiên, cối xay, chuồng lợn, chuồng trâu, chuồng gà. Toàn bộ ngôi nhà bỗng nhiên nhuộm sắc đỏ rực rỡ. Bởi theo quan niệm của người Cao Lan, giấy đỏ biểu trưng cho niềm vui, sự tốt lành. Dán giấy đỏ lên những nơi quan trọng là bắt đầu cho một năm mới với mong muốn an khang thịnh vượng.
Cũng theo phong tục dân tộc Cao Lan, ngày một 1 sẽ đi thăm họ hàng, mồng 2 là làng xóm. Món ăn đặc trưng trong ngày Tết là bánh vắt vai (bên cạnh bánh chưng, bánh rán bánh khảo như các dân tộc khác). Ngày Tết, bất kỳ gia đình nào cũng làm bánh vắt vai. Đó là loại bánh được làm từ gạo nếp, gói trong tàu lá chuối, nhân bánh là đỗ và đường. Trong dịp Tết, người Cao Lan đi lễ tết họ hàng nội ngoại ở xa. Bánh này được cấu tạo theo chiều dài có thể vắt trên vai nên người ta gọi đó là bánh vắt vai.
Tết Nguyên Đán của người Mường và tục hát Sắc bùa
Vào ngày 30 tết, mọi người cùng nhau quây quần gói bánh và làm mâm cỗ cúng tổ tiên Giao thừa. Tất cả con cháu tụ tập trước đền thờ làm lễ khai sáng. Các gia đình sẽ làm đẹp ngôi nhà bằng một cành đào hay mận. Tục dựng cây nêu cũng được duy trì với mong muốn xua đuổi tà ma.
Từ ngày mùng 1 đến mùng 6 tết là dịp mọi người vui chơi, đi chúc tết , tặng quà cho nhà nhau, ăn bữa cơm đầm ấm và tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí trong làng, thậm chí còn rủ làng khác sang giao lưu. Mùng 7 tết là lễ xuống đồng để kết thúc tết và cũng là mong ước cho một năm mới mùa màng bội thu.
Bữa ăn tết thường có bánh chưng và mật, rượu chai, chả rang và dồi , cơm nếp, thịt luộc, mắm muối, một bát nước lã. Người già đứng lên nói lời chúc cho con cháu sang năm mới mạnh khoẻ, làm ăn giàu có. Sau khi đã ổn định chỗ ngồi các mâm – tiếng Mường gọi là “buông cỗ” là thủ tục chào chúc tốt lành, mọi người mời nhau uống rượu, mời ăn các món lần lượt từ món rau đến món thịt luộc.
Sự mời mọc diễn ra liên tục suốt cả bữa cỗ, gần như là mỗi lần gắp là một câu hát thường dang, bọ mẹng, hát ví, mo, kể chuyện tình… làm bữa ăn thêm hoan hỉ. Sự nhiệt tình của mọi người đem lại niềm vui cho các thành viên trong gia đình. Tất cả đều thể hiện một ước vọng mong muốn một Năm Mới nhiều hạnh phúc và may mắn cho mọi người.
Một phong tục đặc trưng trong dịp Tết của người Mường là hát sắc bùa – một di sản văn hóa của người Mường, là lối hát dùng để chúc nhau nhân dịp năm mới. Một phường sắc bùa gồm nhiều người, mỗi người đảm nhận một nhiệm vụ như hát chính, trống chiêng,…
Tết của người Cơ Tu
Người Cơ Tu thường ăn Tết sau vụ thu hoạch. Họ mở hội vui chơi trong ngày lễ cúng thần lúa gọi là Tết Progiêrâm. Đây là lễ lớn nhất trong năm. Trước Tết một tuần, dân làng thường tổ chức đi bắt cá tập thể ở những con sông lớn. Họ ngâm các loại trái, vỏ, rễ cây làm cho cá bị say tự động nổi lên mặt nước rồi tha hồ bắt. Thực phẩm của người Cơ Tu trong ngày Tết chủ yếu là món ăn do đồng bào tự tay làm ra như nếp, lúa, sắn, ngô. Rượu cần và rượu tà vạt là thứ không thể thiếu trong ngày Tết của họ.
Ngoài việc ủ rượu, phụ nữ Cơ Tu còn lo giã nếp, hái lá đốt để làm bánh sừng trâu, nấu nhiều cơm lam để ăn và đãi khách.
Ngoài ra, đồng bào Cơ Tu còn làm thêm món Za zá – món ăn được xem là đặc trưng của dân tộc. Họ dùng các loại rau, măng, lá môn, chuối xanh, thịt rừng hoặc cá, ếch nhái… trộn lại với nhau rồi cho vào ống nứa tươi và đốt lửa bên ngoài. Đây là món ăn dùng nhắm với rượu tà vạt. Bên cạnh việc chuẩn bị nhiều món ăn, người Cơ Tu còn tổ chức các hoạt động văn hóa vui chơi như lễ hội đâm trâu, đánh cổng chiêng, nhảy điệu Za zá – điệu múa thiêng trong nghi lễ hiến sinh của người Cơ Tu, thể hiện sự vui mừng, lòng biết ơn đối với thần linh.
Người Lô Lô đi ăn trộm lấy may
Theo niềm tin của người Lô Lô, những ai có thể có một chút “lộc” ăn trộm được thì sẽ rất may mắn trong cả năm tới. Do đó, họ thường đi ăn trộm vào đêm giao thừa để mong có lộc cả năm. Với người Lô Lô, vui nhất là đi chơi đêm 30, sau giao thừa. Đi lấy may không lấy nhiều, không lấy những đồ vật có giá trị, chỉ là củ hành, củ tỏi, là cây rau, thanh củi nhỏ. Với người Lô Lô sống ở Đồng Văn thường sẽ lấy trộm mỗi thứ 12 cái, tượng trưng cho 12 tháng trong năm.
Còn với người Lô Lô ở Mèo Vạc thì có thể lấy trộm 3 củ cải, trái ớt hay củ hành. Họ đón giao thừa bằng cách đánh thức tất cả các gia súc trong nhà cùng chung vui. Đồng thời dán giấy màu vàng hay màu bạc lên những đồ dùng trong gia đình và cây cối trong vườn theo quan niệm để chúng được nghỉ ngơi trong ba ngày Tết.
Điều thú vị là khi đi lấy trộm vào đêm giao thừa, họ sẽ không rủ nhau mà lặng lẽ không để chủ nhà bắt được.
Dính nhiều tro, ném xôi lên mái nhà của người Giẻ Triêng
Người Giẻ Triêng (sống chủ yếu ở Quảng Nam và Kon Tum), đón Tết cổ truyền với tên gọi là Cha Chả, nghĩa là ăn than. Gọi là ăn than bởi theo quan niệm của người Giẻ Triêng thì trong ngày Tết, ai dính nhiều tro đốt từ than nhất sẽ may mắn, thu hoạch mùa màng tươi tốt.
Để có thể dính tro than, trước Tết 3 ngày, các chàng trai cao to sẽ được cử lên rừng đốt củi thành những đống than lớn và mang về làng. Ngoài ra, người làng cũng nấu xôi, vuốt lên cây giẻ khô rồi đốt lên thành tro. Hai loại tro này sẽ được hất tung lên cao và ai dính được nhiều tro nhất sẽ là người may mắn nhất. Người Giẻ Triêng cũng sẽ cầm một nắm xôi ném lên mái nhà. Nắm xôi của ai dính lên đó sẽ năm mới người ấy sẽ có 100 gùi lúa.
Tây Nguyên vào mùa lễ hội bắt chồng
Khi Tết Nguyên đán bắt đầu, cũng là thời điểm các dân tộc Chu Ru, Cơ Ho, Cil , Giẻ Triêng… Ở Tây Nguyên vào mùa lễ hội bắt chồng. Tục bắt chồng của người Tây Nguyên có nét tương tự với tục cướp vợ của đồng bào miền núi phía Bắc. Chỉ có điều ở đây ngược lại, người phụ nữ đi bắt chồng chứ không phải là người đàn ông đi bắt vợ.
Chuyện kể rằng, ngày xưa, con gái Chu ru không có tiền để ‘’bắt chồng” thì chỉ cần tự dệt 3 chiếc khăn thổ cẩm màu trắng, hồng, chàm sẫm, độ rộng 80 cm, dài khoảng 3 mét để mang sang nhà trai dạm hỏi. Chọn một “đêm thiêng”, cô gái cùng khoảng 10 người trong thân tộc lặng lẽ mang lễ sang nhà chàng trai.
Ông trưởng đoàn (thường là cậu ruột) tiến lên gõ cửa. Mặc dù sự viếng thăm này đột ngột nhưng nhà gái vẫn ra mở cửa mời khách vào nhà. Lúc này, cô gái cầm 3 tấm khăn được gấp gọn ghẽ tiến lên phía trước, ông Trưởng đoàn đứng dậy thưa: “Ông bà ta xưa đã “để cửa” cho con gái nhà nghèo “bắt chồng” không sính của cưới. Cháu tôi đã để ý cậu X. con nhà này. Nay mạo muội đến dâng lễ xin ý kiến mẹ cha”. Cuộc nói chuyện kéo dài cả tiếng đồng hồ. Nếu cha mẹ chàng trai không đồng ý thì cũng tìm cách khước từ một cách tế nhị để nhà gái ra về mà không cảm thấy bẽ mặt.
Một số dân tộc khác ở Tây Nguyên cho đến thời điểm này vẫn giữ tục “bắt chồng”. Tuy nhiên, đa số các đôi đều đã phải lòng nhau trước, và khi cô gái cùng họ hàng đến “bắt chồng” thì đều đã sẵn sàng cho một cuộc hôn nhân.
Nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em chung sống. Mỗi dân tộc có những nét đẹp văn hoá riêng của mình, mỗi dân tộc tộc anh em với những phong tục đón Tết độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của từng tộc người. Dù các phong tục đón Tết có khác nhau nhưng đều hướng tới một ý nghĩa tốt đẹp chung nhất là cầu mong Năm Mới được ấm no, hạnh phúc, mùa màng tốt tươi, gặp nhiều may mắn.
Sưu tầm